Lan hài Slipper Orchid – Giống Cypripedium

Có sự khác nhau đáng kể trong số các loài trong cùng giống về số lượng cũng như thời gian phát hoa, điều đó phụ thuộc vào cao độ và/hoặc vị trí của chúng trên vĩ tuyến nào đồng thời với sự liên hệ với thời điểm của mùa trong năm cũng như thói quen sinh trưởng của chúng.

Hầu hết những người say mê với những loài hoa hoang dã đều không xa lạ gì với giống Cypripedium, một loài có thói quen sống ở vành đai bắc cực thuộc Northern Hemisphere, những vùng á nhiệt đới, có khí hậu ôn hòa. Qua hơn một thế kỷ, những người làm vườn chuyên nghiệp gọi tất cả giống lan hài là “cypripedium” hoặc “cyps”, mặc dù thông thường thì các loài khi đưa về trồng thì đương nhiên là thuộc nhiều giống khác nhau. Nếu đúng là “cyps” thì chỉ có 30-50 loài thuộc loại lưu niên và rụng lá. Các loài địa lan này sống ở vùng rừng cây và đồng cỏ trên các cao độ khác nhau cũng như bìa của các vùng đầm lầy. Các loài ở cực nam thì có ở Mexico; trong khi ở vùng cực bắc thì người ta tìm thấy ở Vành đai Bắc cực thuộc vùng Alaska, Siberia và Canada. Hình thái thực vật của giống Cypripedium nguyên thủy có cuống lá được kéo dài ra, ngược với loài có lá hình quạt, lá của chúng thường là xếp nếp hoặc có sọc, ít khi thấy dạng lá gập. Là cây lưu niên thân của chúng xuất phát từ thân rễ hoặc từ bộ rễ, và chỉ ra hoa một khi cây đã phát triển đầy đủ. Những cây chưa trưởng thành thường chỉ có một ít lá ở sát đất. Vào thời điểm ra hoa, trụ hoa sẽ phát triển để hình thành lá bắc và các nụ. Chỉ có rất ít loài khác với hình thái này ở chỗ xuất hiện một vòi để ra hoa, trong khi đó tất cả xa1x lá thực đề ở phần gốc của thân. Chiều cao của các cây ra hoa chênh lệc ch nhau chỉ từ 10-12 cm, đối với những loài nhỏ nhất, còn đối với những loài lớn hơn mà ta biết thì vào khoảng 30-85 cm, loài Cypripedium subtropicum cao tới 1,5 m.

Cypripedium calceolus

Cypripedium là giống lan rụng lá vào mùa đông, chúng tồn tại bởi thân rễ của chúng. Có sự khác nhau đáng kể trong số các loài trong cùng giống về số lượng cũng như thời gian phát hoa, điều đó phụ thuộc vào cao độ và/hoặc vị trí của chúng trên vĩ tuyến nào đồng thời với sự liên hệ với thời điểm của mùa trong năm cũng như thói quen sinh trưởng của chúng. Có một số loài sinh trưởng nhanh tính đến thời điểm nở hoa, những loài khác thì phát triển đầy đủ hình thái thực vật trong khoảng trên một tháng mới bắt đầu ra nụ. Đối với tất cả các loài, việc ra hoa dường như xảy ra vào mùa xuân và mùa hè. Đối với giống này, khi đã được thụ phấn thì cây cũng nhanh chóng đạt thành quả. Trong hầu hết các loài, trái sẽ hình thành một cách mau chóng và khá nhiều./.

Cypripedium tibeticum

Nếu như có ai đó mong đợi sự giải thích về ý nghĩa của từ acaule, thì có thể nói tính chất thực vật đặc trưng của nó là hầu như không có thân. Tương đối phổ biến là lá của chúng có màu xanh đậm của rừng cây, mép lá quăn theo hai đường sọc song song, và mặt dưới có màu ánh bạc. Lá có hình ô-van hoặc hình ê-lip chiều dài đạt tới 10-25 cm và chiều rộng của lá 4-15 cm. Toàn bộ cây đều có các tuyến lông tơ.

Những cây trưởng thành có một cuống hoa dài và to, hoa nổi bật với cái lá bắc giống như cái mũ trùm đầu, Rất ít khi có hai hoa trên một vòi hoa. Vòi hoa có thể đạt tới 20-45 cm, và chiều dài hoa giao động khoảng 6-7 cm, rộng 5-6 cm.

Các lá đài và cánh hoa có màu vàng xanh hoặc màu vải ka-ki, mở rộng ở phần chân, gập lại thành mũi nhọn ở đỉnh. Lá đài sau hẹp và ôm lấy cái túi, bẩm sinh nó đã vậy. Chiều dài lá đài sau cũng như lá đài ở mặt bụng đo được 3-5 cm. Còn những cánh hoa ta thấy chúng xoắn lại thì dài tới 7 cm. Các cánh hoa lòng thòng làm cho ta có cảm giác bông hoa rất hẹp về chiều ngang.

Cái túi với các màu sắc khác nhau, từ màu đỏ tươi (magenta) đến màu hồng nhạt ở những bông hoa nguyên thủy. Loài thuộc dòng alba sở hữu cái túi có màu trắng có thể có ánh hồng hoặc một màu xanh lá lại hơi ửng đỏ. Cả hai loài này có thể cùng chung một môi trường sống nhưng rất ít khi thấy chúng ở trên cùng một địa điểm. Cái túi thường có những đường vân. Những đặc tính để phân biệt là một khe hở như một lát cắt, một vết cắt dọc chia đôi mặt trước của cái túi phồng lên và được kéo dài ra. Cái túi đó có chiều dài chừng 5 cm, cái túi chính là điểm thu hút nhất của bông hoa.

Cả hai loài là C. japonicum và C. formosanum đều có cái túi giống nhau ở chỗ có vết cắt một phần trên đó.

Mùa ra hoa: Ở miền nam (Hoa kỳ) từ giữa tháng Tư đến cuối tháng Bảy thì hai loài trên đạt được độ trưởng thành.

TÊN CHUNG. Loài Hoa màu da hồng (Pink Moccasin Flower), Hài hồng (Pink Lady’s Slipper) và Hài hồng không thân (Stemless Lady’s Slipper) là những loài có tên chung thường được dùng là C. acaules. Ông Correll (1950) đã  đưa ra một bản danh sách các tên chung dài hơn cho loài này và một vài loài khác như được mô tả trong chương này./.

Theo kenhantan.com

Bài Viết Mới

Bài Đọc Nhiều

Liên hệ quảng cáo

Tắt Quảng Cáo [X]
Kyoryo Nhật Bản